Dave Engledou bắt đầu chụp ảnh công chúa nhỏ của mình là Alice Bee kể từ ngày cô bé được sinh ra vào năm 2010. Engledou tự gọi mình là "người cha tốt nhất trên thế giới". Các ngày trong tuần của họ luôn đầy ắp những tiếng cười và anh luôn cố gắng để lưu lại tất cả khoảnh khắc này.
Những điều giản dị diễn ra trong cuộc sống hàng ngày là nguồn cảm hứng cho các bức ảnh của Dave Engledou.
Và có lúc chúng mang đầy nét siêu thực
Engledou bắt đầu chụp ảnh cô công chua nhỏ của mình kể từ khi bé vẫn còn phải... quấn tã. Anh muốn ghi lại toàn bộ quá trình làm cha của mình.
Anh không bao giờ mất đi tính hài hước, thậm chí cả trong quá trình giáo dục con.
Và anh đã tạo ra hình ảnh của một người cha tốt. Điều này không phải ai cũng làm được.
Hầu hết các bức ảnh được chụp một cách riêng biệt, nhưng với sự giúp đỡ của biên tập viên ảnh Daddy, chúng đã thành một chỉnh thể hợp lý.
Engeldou nói rằng, khi con gái mình lớn lên và không còn muốn tiếp tục chụp những bức ảnh hài hước như thế này nữa, anh sẽ không phản đối cô bé.
Tất cả những hình ảnh này sẽ để lại một ký ức đẹp cho cô con gái bé nhỏ của Engledou
Mỗi bức ảnh là một khoảnh khắc riêng biệt từ cuộc sống của gia đình họ.
Tất cả chúng đều rất thú vị!
Engledou tự gọi mình là "người cha tốt nhất trên thế giới"!
Theo y học cổ truyền, riềng có vị cay, mùi thơm, tính ẩm vào hai kinh Tỳ và Vị, có tác dụng ôn trung, giảm đau, tiêu hóa thức ăn.
Công dụng đa dạng
Riềng có tên là phong khương, cao lương khương, tiểu lương khương. Cái tên cao lương khương có nghĩa là gừng mọc ở đất Cao Lương mà thành tên. Người ta kinh doanh riềng qua các nước ở phía Đông và đến tận Bắc châu Âu từ thế kỷ thứ 12. Cũng có người cho rằng, tên của nó xuất xứ từ tiếng Ả Rập sau đó được đổi tên thành riềng, có nghĩa là gừng cay nhẹ và được sử dụng rộng rãi cho đến ngày nay.
Thành phần hóa học của riềng có khoảng 1% tinh dầu, có mùi thơm long não, chủ yếu có xineola và metylxinnamat. Ở dạng tươi sống, riềng có mùi hương gần giống như gừng, nhưng không cay nồng như gừng. Riềng là vị thuốc phổ biến thường dùng trong dân gian, sau khi đã loại bỏ phần rễ, lá, thân của cây thì được rửa sạch, cắt lát phơi khô. Một số nơi, người ta dùng rễ phơi khô làm thuốc theo cách đào rễ, rửa sạch đất, cắt bỏ rễ con rồi cắt thành từng đoạn 2 - 3cm đem phơi khô. Hỗn hợp riềng và nước lá chanh được dân ta dùng như thuốc bổ. Riềng là nguồn cung cấp dồi dào các chất natri, sắt, chất xơ, vitamin A, C và flavanoid… Riềng chứa các hoạt chất mang đặc tính kháng viêm nên rất có ích trong việc điều trị viêm khớp, thấp khớp, phong thấp, đau cơ bắp và giúp vết thương mau lành mà ít để lại sẹo. Bên cạnh đó, nó cũng còn có khả năng điều trị chứng khó tiêu, giúp làm giảm khó chịu gây ra do viêm loét dạ dày. Riềng còn chứa nhiều chất chống oxy hóa giúp giảm thiểu các tác hại gây ra bởi các gốc tự do và những độc tố khác trong cơ thể. Từ đó, góp phần phòng ngừa và điều trị các căn bệnh về da như: ghẻ, lang ben, lở loét và sưng viêm.
Ngoài ra, riềng có tác dụng tăng cảm giác ngon miệng, điều trị ho gà, đầy hơi, rối loạn tiêu hóa, mật, ruột co thắt và đau thắt ngực, giúp long đờm, giảm đau cổ họng, trị tiêu chảy, hạ cholesterol và triglyceride trong máu.
Theo y học cổ truyền, riềng có vị cay, mùi thơm, tính ẩm vào hai kinh Tỳ và Vị, có tác dụng ôn trung, giảm đau, tiêu hóa thức ăn. Riềng tẩm rượu, sấy khô, rồi tán nhỏ và trộn đều uống chữa đau dạ dày, nhất là khi bệnh đã thành mạn tính. Củ riềng già, chuối xanh và một ít vôi bột cũng là bài thuốc trị hắc lào công hiệu. Khi kết hợp với một số thảo mộc khác như: trần bì, sa nhân, đại táo, quế, nụ sim, thanh bì, bột thảo quả… cũng là những bài thuốc phổ biến trong dân gian.
Bài thuốc thường sử dụng
Trị đau bụng do hàn, nôn ra nước trong, đau bụng do sa đì :
Lương phụ hoàn: cao lương khương, hương phụ lượng bằng nhau, tán bột mịn gia nước gừng, cho tí muối làm thành hoàn, mỗi lần uống 3 - 6g, ngày 2 - 3 lần với nước ấm. Trị đau bụng hàn.
Cao lương khương 10g, ngũ linh chi 6g, tán bột mịn trộn đều uống. Trị đau lóet dạ dày tá tràng. Trường hợp xuất huyết không dùng.
Cao lương khương thang: cao lương khương 6g, hậu phác 10g, đương quy 10g, quế tâm 4g, sinh khương 10g, sắc nước uống. Trị đau bụng ngực, đau bụng quặn do cảm lạnh.
Trị nôn ói do vị hàn:
Cao lương khương 10g sao qua tán bột mịn, uống với nước ấm.
Cao lương khương 8g, đại táo 1 quả sắc với 300ml nước còn 1/3 chia uống trong ngày.
Cao lương khương, bạch linh, đảng sâm đều 10g, sắc uống trị chứng nôn hư hàn.
Liều lượng dùng và chú ý: liều thường dùng: uống 3 - 10g.
Không dùng đối với chứng nhiệt thịnh, âm hư. Sách Bản thảo kinh sơ viết: “Vị hỏa sinh nôn, thương thử hoắc loạn, tiêu chảy hỏa nhiệt tâm hư gây đau, kị dùng”./.
Trong cuộc sống hiện nay, bên cạnh những ồn ào xô bồ của cuộc sống cơm áo gạo tiền, vẫn còn không ít những tấm lòng hảo tâm. Họ đã thầm lặng giúp đỡ cho những cá nhân kém may mắn hơn mình bằng chính mồ hôi nước mắt và sự hi sinh. Một trong những tấm lòng cao cả ấy có Lương Y Phạm Văn Thanh. Người đã thầm lặng tặng "thần dược" và đã bỏ cả nghề nghiệp ổn định với mong muốn tìm ra phương thuốc tốt nhất để chữa trị cho những bệnh nhân nghèo, những bệnh nhân bị dạ dày. Dưới đây chúng tôi muốn giới thiệu tới quý độc giả những bài báo viết về ông, một con người có tấm lòng cao cả, một lương y luôn dốc lòng vì chữ tâm, chữ đức.
Bài 1: Người bí ẩn tặng “thần dược” chữa dạ dày
Anh lặng lẽ làm một việc mà anh vẫn hay làm, là gửi chút tiền và một bọc thuốc đủ để chữa khỏi căn bệnh viêm loét dạ dày, viêm hành tá tràng cho nhân vật khốn khổ trong bài báo.
Trong đời làm báo của mình, tôi đã gặp vô số những con người đặc biệt và kỳ lạ. Thầy thuốc Phạm Văn Thanh (Nhà thuốc Hoàng Liên Sơn, 166 Hàm Nghi, Kim Tân, TP. Lào Cai) là một thầy thuốc đặc biệt. Không phải anh có tài chữa bệnh ung thư, hoặc truyền năng lượng như những siêu nhân, mà bởi anh có một tấm lòng đặc biệt và niềm say mê vô bờ với những cây thuốc dân gian chữa một căn bệnh cũng không quá phức tạp, nhưng rất nhiều người mắc và khốn khổ vì nó: bệnh liên quan đến dạ dày.
Lương y Phạm Văn Thanh và khối mật ong "hóa thạch".
Tôi bắt đầu để ý đến ông thầy thuốc này từ những cuộc điện thoại của những nhân vật trong bài viết của tôi và của đồng nghiệp, về những thân phận đặc biệt.
Một ngày, khi tôi đang trèo lên sườn Yên Tử, chợt nhận được điện thoại của chị Nguyễn Thị Dung. Chị thông báo đang ở thủ đô, muốn gặp tôi, giọng chị xúc động lắm, rằng cám ơn nhà báo, rằng căn bệnh viêm loét dạ dày, viêm hành tá tràng hành hạ chị suốt chục năm qua, giờ đã khỏi hẳn, khỏi tịt rồi. Chị vừa lĩnh được đồng lương phu hồ, tò mò vào bệnh viện chiếu chụp, nội soi, thì bác sĩ bảo các vết viêm loét như sắp đục thủng dạ dày đến nơi, giờ đã liền sẹo. Chị sung sướng quá gọi điện cho tôi, cám ơn tôi, rằng vì bài báo mà có một ông thầy thuốc lạ, ký tên là T. đã gửi tặng chị một bọc thuốc. Chị nửa tin nửa ngờ, nhưng không có tiền đi viện, mua thuốc, nên cứ uống liều, thế mà lại khỏi.
Anh Thanh trong một lần leo núi lấy thuốc.
Cuộc đời chị Dung, người đàn bà có tấm lòng nhân văn lạ lùng mà đong đầy nước mắt. Quê chị ở Ứng Hòa (Hà Nội). Bố chết hồi chị mới lên 6 tuổi. Mẹ vừa mất mấy năm trước. Nhà chị có 5 anh chị em thì mất 2 anh. Một anh đi cưa gỗ, bị cây đổ đè chết, một người chết vì hen. Dung học hết lớp 3 thì nghỉ, theo mẹ mò cua bắt ốc kiếm sống.
Cuộc sống nghèo khổ đến nỗi cái xe đạp cũng không có, nên đến khi lấy chồng, xe đạp cũng chẳng biết đi. 18 tuổi, Dung bị gia đình ép lấy người cùng xóm. Anh này cao lớn, nhưng mắc bệnh động kinh. Trong lần lên cơn, anh lăn ra chết.
Chị Dung và anh Hương ngày anh còn sống.
Năm 2006, Dung lên xã Xuân Quang (Tam Nông, Phú Thọ) thăm chị gái và tình cờ gặp Phạm Văn Hương, chàng trai tật nguyền suốt ngày đánh vật với chiếc xe lăn ra vào trong ngôi nhà nhỏ dưới bụi tre bên bãi sông Hồng. Biết Hương là chàng trai từng viết thư lên Trung ương Hội Chữ thập đỏ xin được móc đôi mắt của mình tặng cho một cô gái mù, chị Dung cảm phục lắm. Từ sự cảm phục, rồi lòng thương, chị đã gắn bó cuộc đời nhỡ nhàng của mình với chàng trai tật nguyền nơi xó núi. Kết quả của cuộc tình xúc động đến tận trời xanh là một bé gái ra đời.
Vừa mấy tháng trước, chị Dung gọi điện cho tôi trong nước mắt, rằng người chồng bất hạnh của chị đã lìa đời. Trong cơn hấp hối, anh vẫn kêu gào yêu cầu được hiến mắt. Nhưng những người thân đã không thực hiện ý nguyện của anh. Họ nghĩ thiển cận rằng, cả đời anh đã sống trong tàn tật, cô đơn, đến khi về thế giới bên kia, anh đã tàn tật, lại thiếu đi đôi mắt thì còn gì là hồn ma nữa!
Lương y Phạm Văn Thanh leo Tả Phời, đỉnh núi rất cao và có nhiều thuốc quý trong rừng Hoàng Liên Sơn.
Từ ngày anh Hương mất, tôi thực sự lo cho chị Dung. Anh Hương là gánh nặng của đời chị, nhưng anh đi rồi, chỗ dựa kinh tế không có, chỗ dựa tinh thần cũng mất nốt, chẳng hiểu chị sẽ sống ra sao. Cô con gái Phạm Hoài Anh thì còi cọc, suy dinh dưỡng trầm trọng, 5 tuổi rồi mà bé chỉ nặng có 6kg, còn chị mắc đủ thứ bệnh: sỏi thận, viêm loét dạ dày, thoái hóa cột sống, viêm hành tá tràng…
Gia đình chồng chia cho vợ chồng chị 10 thước ruộng ở sát mép sông Hồng, cách nhà 5km. Mảnh ruộng chỉ cấy được một vụ, vì mùa lũ nước dâng cao, ruộng biến thành lòng sông. Năm nào được mùa, năng suất, thì được 1 tạ thóc. Không đủ ăn, chị Dung phải dầm mình mò cua bắt ốc suốt ngày để kiếm sống.
Cây thuốc quý.
Chị rưng rưng xúc động: “Uống thuốc của thầy T. em khỏi bệnh rồi, người khỏe mạnh, ăn uống được nên tăng mấy cân liền. Giờ em gửi con cho ông bà rồi xuống Hà Nội làm phu hồ. Em xách vữa, bê gạch cho đội thợ làm ở Bộ Công an anh à. Lương đủ cho em sống và nuôi con. Em gọi điện đội ơn anh, đội ơn thầy thuốc T. Em nhờ anh gọi điện cám ơn thầy giúp em nhé!”.
Tôi bấm máy gọi điện cho lương y Phạm Văn Thanh, anh xác nhận rằng, sau khi đọc bài báo “Cảm động hai anh em tật nguyền lấy vợ qua thư” trên VTC News, anh đã rơi nước mắt. Anh lặng lẽ làm một việc mà anh vẫn hay làm, là gửi chút tiền và một bọc thuốc to tướng, đủ để chữa khỏi căn bệnh viêm loét dạ dày, viêm hành tá tràng cho nhân vật khốn khổ trong bài báo.
Nhờ có bọc thuốc, chị Dung đã khỏi bệnh viêm loét dạ dày, loét thành tá tràng.
Đối với một người bình thường, những căn bệnh liên quan đến dạ dày chưa phải là ghê gớm, nhưng đối với một người tận cùng của nghèo khổ, đói rách, cơm ăn còn chả có như chị Dung thì quan trọng lắm. Chị lấy đâu ra tiền đi viện, mua thuốc, mổ xẻ để chữa bệnh dạ dày. Vậy nên, nếu nói gói thuốc giản dị kia đã cứu cuộc đời mẹ con chị thì chẳng có gì quá lời.
Chuyện người đàn bà tìm lại cuộc sống nhờ bọc thuốc lạ gửi đến rồi cũng qua đi. Cho đến một hôm, tôi lại nhận được điện thoại của ông Vũ Minh Tằng, cựu tù Phú Quốc, tên tuổi đã đi vào lịch sử. Hôm đó là dịp 30-4, ông được mời lên Hà Nội để giao lưu trực tiếp trên truyền hình. Ông gọi tôi đến để được cám ơn, rằng qua bài báo trên VTC News, mà một ông thầy thuốc giấu tên, đã tặng thuốc cho ông. Bọc thuốc đó, ông đã chia đôi, vì con rể cũng bị đau dạ dày, thế mà giờ, cả hai bố con đều khỏi.
Anh Thanh và củ thuốc cực quý, chỉ có ở độ cao hơn 2.000m, đang bị Trung Quốc thu mua ráo riết.
Ông Vũ Minh Tằng là nạn nhân của những cuộc tra tấn tàn ác nhất lịch sử Việt Nam, mà tác giả là cai ngục Bảy Nhu. Tên cai ngục này đã áp dụng đủ các ngón tra tấn kinh hoàng với ông: Ăn phân người, uống nước tiểu, dùng chày đập vỡ đầu gối, đóng đinh vào chân, dùng tuýp nước bẻ từng chiếc răng và bắt nuốt…
Ra tù, ông Vũ Minh Tằng mất 66% sức khỏe, mắc đủ thứ bệnh, mà khốn khổ nhất là bệnh loét dạ dày, tá tràng. Tóm lại, toàn bộ hệ tiêu hóa của ông đã tàn phế. Hệ tiêu hóa hỏng, xương cốt, thần kinh đầy tàn tích của các đòn tra tấn, kéo theo hàng loạt thứ bệnh khác ngày đêm hành hạ. Mỗi khi lên cơn đau, cái dạ dày của ông căng lên như quả bưởi. Khi ông cúi xuống, “quả bưởi” chạy lên, ông đứng thẳng lên, “quả bưởi” rơi xuống, đau muốn ngất lịm.
Căn bệnh đau dạ dày của ông Vũ Minh Tằng đã ổn định.
Một ngày, ông Tằng nhận được bọc thuốc to tướng, bên ngoài đề: “Kính tặng chú Vũ Minh Tằng thang thuốc chữa dạ dày. Mong chú chóng khỏi bệnh. Thầy thuốc T. – Lào Cai”.
Ông Tằng là người nổi tiếng, được cả nước trân trọng, song ông cũng đáng thương lắm. Báo đăng, ông được độc giả cho hơn trăm triệu đồng. Cũng có nhiều bác sĩ, cả ở nước ngoài gửi thuốc tặng ông. Ông bảo: “Tôi vốn là tù binh Phú Quốc, đồng đội có nhiều mà kẻ thù cũng có lắm, nên ai tặng thuốc, tôi đều đem đi xét nghiệm, trước hết là xem có độc không, thứ nữa là xem có tác dụng không. Xin lỗi lương y T., khi nhận được thuốc, tôi mang bọc thuốc xuống chỗ ông bạn ở Thành phố Nam Định, ông ấy có máy móc hóa nghiệm. Ông ấy bảo thuốc này tốt, không có độc, tôi mới uống. Thằng con rể cũng loét dạ dày nặng nên tôi chia cho nó một nửa, hai bố con cùng uống. Tôi không ngờ, uống có nửa thang thuốc, mà những cơn đau dạ dày biến đâu mất, tôi ăn ngon, ngủ kỹ, tăng được 2 kg rồi”.
Chở thuốc trong cảnh đêm hôm, sương mù.
Tôi cho ông Tằng số điện thoại của lương y Phạm Văn Thanh. Ông gọi cám ơn thầy thuốc. Anh Thanh biết ông Tằng chia đôi thang thuốc cho con, nên tặng thêm thang nữa để ông uống tiếp. Giờ thì ông Tằng lại gọi điện cám ơn tôi, rằng căn bệnh viêm loét dạ dày, tá tràng của ông, có lẽ đã khỏi hẳn.
Bài 2: Người bỏ bệnh viện vào rừng tìm "thần dược" trị dạ dày
Sự kết hợp giữa kiến thức Tây y với Đông y gia truyền và kinh nghiệm dân tộc, đã mang lại những khám phá thú vị trong các bài thuốc của anh, đặc biệt bài thuốc chữa dạ dày mà anh dày tâm nghiên cứu.
Mới đây, lương y Phạm Văn Thanh gọi điện cho tôi rủ xuống Nam Định chơi mấy ngày. Anh tự lái chiếc xe Zace cũ từ mãi Lào Cai xuống. Tôi hỏi, sao không đi tàu cho sướng, lái xe đường sá xa xôi làm gì cho khổ. Hóa ra, trong xe chứa toàn thuốc. Anh tự mình lái xe chở cả tạ thuốc đi từ Hà Nội về Nam Định. Hầu hết số thuốc trên xe anh dành tặng những người nghèo mắc bệnh trọng, là những thân phận khốn cùng mà anh đọc trên báo. Số cây cỏ còn lại anh mang về Công ty Nam Dược ở Nam Định để nhờ máy móc công ty chiết xuất, phân tích thành phần hoạt chất. Đó là những cây thuốc mà anh mới học được của đồng bào vùng cao.
Lương y Phạm Văn Thanh và cây thuốc quý.
Trên đường về thăm và tặng thuốc người chiến sĩ cộng sản Vũ Minh Tằng, nạn nhân của những trò tra tấn tàn ác trong nhà tù Phú Quốc ở Nam Định, còn có một bệnh nhân đặc biệt đi cùng. Biết anh Thanh về miền xuôi, anh nằng nặc xin được đi theo để đội ơn ông thầy thuốc đặc biệt, đã cứu anh thoát khỏi căn bệnh loét dạ dày, mà đối với anh, nó thực sự quá kinh hoàng. Bệnh nhân đó là anh Đinh Bách Diệp, ở Nguyễn Văn Cừ (Long Biên, Hà Nội).
Theo lời anh Diệp, đã có 4 lần anh suýt toi mạng vì căn bệnh loét dạ dày. Vết loét dạ dày của anh rất quái gở, lại nằm ngay thành mạch máu. Đã mấy lần đi nội soi, song bác sĩ khuyên không nên mổ, vì vết mổ sẽ rất rộng, cắt rất nhiều dạ dày, lại phải tạo hình lại môn vị khá nguy hiểm.
Anh Đinh Bách Diệp đã khỏi căn bệnh viêm loét dạ dày.
Mặc dù chỉ là vết loét ở dạ dày, song vết loét thường xuyên xuất huyết âm thầm, không gây đau đớn. Máu cứ lặng lẽ chảy từ vết loét, đầy dạ dày. Mất máu, đầu óc choáng váng, mất kiểm soát, anh lại lăn ra ngất xỉu. Căn bệnh biến anh thành người mất hồn, rất yếu, không làm được gì. Dù bệnh viện kê đủ các loại thuốc cầm máu, thuốc đặc trị vi khuẩn HP, song vẫn chả ăn thua, cứ 2-3 tháng lại xuất huyết trở lại.
May mắn, sử dụng bài thuốc đặc trị của lương y Phạm Văn Thanh, chỉ chưa đầy một tháng anh hết triệu chứng bệnh. Anh Diệp đi nội soi lại, bác sĩ bảo vết loét đã thành sẹo màu hồng. Như vậy, về cơ bản, vết loét dạ dày đúng chỗ hiểm của anh Diệp đã được chữa khỏi. Giờ anh ăn khỏe, ngủ khỏe, tăng cân. Với anh Diệp, đó là sự thần kỳ, là niềm vui không gì đánh đổi được.
Anh Thanh và người tù cộng sản trung kiên Vũ Minh Tằng. Anh Thanh đã tặng khá nhiều thuốc trị dạ dày và tá tràng cho ông Tằng.
Theo anh Thanh, bài thuốc chữa dạ dày của anh là bài thuốc gia truyền của cha ông, truyền đến anh là đời thứ 4. Cha anh là ông lang nổi tiếng đất Lào Cai Phạm Văn Đĩnh.
Mặc dù là con của lang y nổi tiếng, song thời trẻ anh Thanh lại theo… Tây y. Anh vốn học tập ở Bệnh viện Việt Đức, sau công tác ở Bệnh viện tỉnh và Hội Đông y Lào Cai.
Những người làm việc trong môi trường Tây y hiện đại, vốn ít nhiều coi thường Đông y, song có một điều lạ, là càng hiểu sâu về Tây y, thì anh Thanh lại càng nhận ra chân giá trị của những bài thuốc Đông y gia truyền. Khi đã hiểu được sâu sắc bản chất của nền Tây y và Đông y, anh có một quyết định đặc biệt là xin thôi việc.
Anh Thanh đang đào thuốc trong rừng.
Củ thuốc quý có tác dụng tiêu độc cực mạnh, tăng cường sức đề kháng cho cơ thể.
Quyết định thôi nghề sau 20 năm theo đuổi của anh khiến không ít người ngạc nhiên. Nhưng anh bảo, kiến thức Đông y vô cùng sâu rộng, uyên bác, dù có học cả đời cũng chỉ hiểu được bằng cái móng tay. Do đó, không còn nhiều thời gian nữa, anh phải tập trung toàn tâm toàn ý cho việc nghiên cứu Đông y.
Sự kết hợp giữa kiến thức Tây y mà anh có được, với các phương thuốc gia truyền và các cây cỏ, bài thuốc của dân tộc, đã mang lại những ngạc nhiên thú vị, khả năng chữa bệnh thần kỳ. Trời đất và sự sống đều trong vòng sinh – diệt. Nếu trời đất sinh ra con người, sinh ra bệnh tật, thì cũng sinh ra cây cỏ có tác dụng điều trị bệnh, vấn đề là người thầy thuốc phải tìm ra được phương pháp, quy luật, sử dụng được cây cỏ đó trong việc điều trị bệnh. Kiến thức này là của nhân loại, và nó có ma lực cuốn hút rất lớn đối với thầy thuốc yêu nghề. Ngay như bản thân anh, được cha ông truyền lại rất nhiều bài thuốc, song anh chuyên tâm nhất vào căn bệnh dạ dày. Chỉ một căn bệnh này, anh phải mất cả đời để nghiên cứu, theo đuổi, cũng chưa chắc đã hoàn thiện được. Thế giới của các vị thuốc, cây thuốc đa dạng, sâu sắc và biến ảo khôn lường.
Củ thuốc đặc biệt có tác dụng trị viêm loét dạ dày.
Anh Thanh bảo rằng, dù bài thuốc chữa dạ dày gia truyền của ông cha anh có tiếng ở đất Lào Cai, song tác dụng thực sự chỉ đạt vài chục phần trăm. Lý do là vì ngày xưa, những người đau dạ dày phần lớn ở tuổi ngoài 40. Nguyên nhân đau dạ dày chủ yếu là do can khí phạm vị, tức suy nghĩ căng thẳng. Những người đứng tuổi hay suy nghĩ, nên mới đau dạ dày. Ngoài ra, còn có thêm 2 nguyên nhân nữa là do đồ ăn không phù hợp và tì vị hư hàn (đường ruột lạnh).
Nếu những người mắc bệnh dạ dày do những nguyên nhân trên, bài thuốc gia truyền của cha ông anh sẽ có tác dụng tốt. Tuy nhiên, trong xã hội ngày nay, còn có thêm vô số nguyên nhân nữa dẫn đến căn bệnh dạ dày như rượu chè, bia bọt, thuốc lá, môi trường ô nhiễm, các loại đồ ăn độc hại, vi khuẩn HP(Helicobacter Pylori)… Do đó, nếu không xác định được rõ nguyên nhân gây đau dạ dày, thì phương thuốc gia truyền cha ông để lại sẽ ít tác dụng.
Anh Thanh theo đồng bào đi tìm cây thuốc quý ở Hà Giang.
Vì vậy, để việc chữa bệnh đạt hiệu quả, anh Thanh phải nghiên cứu thêm rất nhiều vị thuốc mới nhằm hoàn thiện bài thuốc của mình và tùy từng nguyên nhân mắc bệnh mà tăng giảm liều lượng mới có tác dụng triệt để.
Nói thì đơn giản, nhưng để có được bài thuốc chữa mỗi cái dạ dày to bằng vốc tay, ông thầy thuốc Phạm Văn Thanh đã mất cả chục năm trời ăn rừng ngủ thác. Kiến thức Đông y trong sách vở nước ta quả thực như giọt nước trong biển cả, quá mỏng manh và ít ỏi.
Ngoài việc học từ ông cha, thầy thuốc, sách vở trong nước, thì kiến thức Đông y vô cùng quan trọng anh học từ thực tế. Anh Thanh kể chuyện này mà lòng đau như dao cứa: Ở Lào Cai, mỗi năm lại diễn ra vài cơn lốc tận thu thảo dược bán sang Trung Quốc. Người Trung Quốc mang mẫu cây cỏ sang, đặt các đại lý, các đại lý thuê dân chúng đi tìm. Lúc đầu họ mua giá rẻ, đến khi cạn kiệt thì giá lên tận… trời xanh! Có những cây cỏ, như cỏ nhung chẳng hạn, lúc đầu họ mua 5-10 ngàn đồng/kg, nhưng khi cạn kiệt, thì giá vọt lên đến 8 triệu đồng/kg. Nhưng lúc đó thì loài thảo dược này sạch bóng ở Việt Nam rồi.
Hành trình đi tìm thuốc ở rừng sâu bên nước bạn Lào.
Hầu hết những cây cỏ mà người Trung Quốc mua đều không có tên trong sách vở, chưa ai từng biết đến. Hễ thấy người Trung Quốc thu mua, anh liền mang mẫu đi phân tích, rồi dò la tìm hiểu từ nước họ. Quả thực, những thứ họ săn mua tận diệt, đều là cây thuốc rất quý, mà nền Đông y nước nhà chưa biết đến. Riêng việc tìm hiểu qua cách này, anh Thanh đã biết được cả chục loại thuốc quý, có tác dụng chữa bệnh thần kỳ. Để bảo tồn được các giống thảo dược mà người Trung Quốc thu mua tận diệt, anh lặng lẽ xới những mảnh đất nơi khe đá trong rừng sâu để gieo trồng, bảo tồn. Những mảnh vườn bí mật trong rừng Hoàng Liên Sơn của anh hiện đang bảo tồn cả chục loại cây thuốc quý đã bị người Trung Quốc mua sạch. Vì những lý do đó, mà mong ước lớn nhất của anh Thanh lúc này là Nhà nước hãy ra sức ngăn chặn tình trạng chảy máu thuốc quý ra ngoài biên giới. Ngoài ra, anh ước có được mảnh đất trong rừng, nơi đó, anh sẽ trồng trọt, bảo tồn thật nhiều cây thuốc sắp bị tuyệt chủng vì thói mua bán nhổ tận gốc trốc tận rễ của người Trung Quốc.
Anh Thanh tại khu vườn bí mật bảo tồn các loại thuốc quý trên đỉnh Tả Phời.
Hàng chục năm nay, dấu chân lương y Phạm Văn Thanh đã in khắp các đỉnh núi cao nhất của miền Bắc Việt Nam, các khe suối, vách đá, đại ngàn hoang thẳm. Anh đi xuyên sang cả nước Lào để nghiên cứu thêm. Hễ dân tộc nào có bài thuốc quý, cây thuốc đặc biệt, anh sẽ tìm ngay đến để nghiên cứu, học hỏi và làm sáng tỏ tác dụng của nó. Sự kết hợp giữa kiến thức Tây y, kiến thức gia truyền và kinh nghiệm dân tộc, đã mang lại những khám phá thú vị trong các bài thuốc của anh, đặc biệt bài thuốc chữa dạ dày mà anh dày tâm nghiên cứu.
Cụ Lê Thế Minh, cụ già mù 80 tuổi, sống cô độc bằng nghề ăn mày, hiện trú ở xóm liều, xã Tân Dương (Thủy Nguyên, Hải Phòng), là nhân vật trong phóng sự "Đau lòng cụ già mù dắt chó đi ăn mày" (đăng ngày 1-4-2011 trên VTC News) đã được lương y Phạm Văn Thanh tặng thuốc trị viêm loét dạ dày. Ngay khi VTC News đăng bài về cụ Minh 1 giờ đồng hồ, lương y Phạm Văn Thanh đã điện thoại cho tác giả xin địa chỉ cụ Minh để tặng thuốc. Tuy nhiên, cụ sống ở xóm liều, chính quyền xã không nắm rõ, nên mấy lần thuốc gửi đi theo đường bưu điện lại quay về Lào Cai. Cuối cùng, anh Phạm Văn Thanh phải nhờ người quen mang thuốc đến tận nơi tặng cụ. Sau khi uống thuốc một tháng, cụ đã nhờ cậu hàng xóm sống bằng nghề đánh giày gọi điện cảm ơn anh Thanh, vì đã khỏi bệnh.
Anh Thanh cho rằng, dạ dày là thứ tối quan trọng của con người. Từ căn bệnh dạ dày, sẽ sinh ra đủ các thứ bệnh khác, nghiêm trọng nhất là ung thư dạ dày, với 90% là chết. Nước ta có hàng triệu người mắc các bệnh liên quan đến dạ dày. Do vậy, cái dạ dày ảnh hưởng đến sinh mạng của cả triệu con người, chứ không phải đơn giản. Hiện tại, sức anh không giúp xuể số người đau dạ dày ở khắp cả nước, nên sau nhiều ngày trằn trọc suy nghĩ, anh đã có một quyết định hệ trọng, đó là chuyển giao bài thuốc đặc biệt này cho một doanh nghiệp lớn chuyên sản xuất thuốc Nam. Anh hy vọng, doanh nghiệp này sẽ làm được một việc quan trọng, đó là điều trị cho hàng vạn bệnh nhân đang bị căn bệnh dạ dày hành hạ, những cái dạ dày bệnh tật đã nhờn với thuốc Tây độc hại nhiều tác dụng phụ.
Sau khi phát hết xe ô tô thuốc trên cung đường từ Hà Nội về Nam Định, thầy thuốc Phạm Văn Thanh lại lái xe lên núi. Hôm sau, tôi gọi điện hỏi thăm thì: “Thuê bao quý khách vừa gọi hiện… “đang ở trên đỉnh Tả Phời!”. Có lẽ, ông chủ của nó đang còng lưng cuốc đất trồng cây thuốc quý ở khu vườn bí mật giữa rừng sâu trên đỉnh ngọn núi cao hơn 2000m so với mặt nước biển. Sự khắc nghiệt và giá lạnh mới cho ra đời những cây thuốc quý.
Hiện nay, có rất nhiều thầy thuốc, nhà thuốc, mọc lên nhưng không phải tất cả họ đều có tài năng về y học, y thuật, rất nhiều trong số những thầy thuốc đó đều vì tiền hành nghề và quên đi chữ tâm, chữ đức. Thật may thay, những “danh y lang băm” nói trên đều không thể tồn tại được lâu.
Nắm bắt được sự tồn tại của nghề, vì yêu nghề và muốn cống hiến hết mình cho nghề, những Lương y chân chính đã dốc hết sức vì chữ tâm vì người bệnh. Một trong số những Lương y tiên phong ấy chính là ông Nguyễn Văn Hiền trú tại xóm 20, Nghi Trung, Nghi Lộc, Nghệ An.
Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất nghèo của miền gió lào cát trắng, được trưởng thành trong gia đình có truyền thống làm nghề y nên từ nhỏ ông Hiền đã thẫm đẫm được tầm quan trọng của cái y đức, tầm quan trọng của việc chữa bệnh cứu người. Đã từng theo ông nội rồi theo cha gánh bồ thuốc đi khắp nơi chữa bệnh và phát thuốc miễn phí cho người nghèo; Được ông nội giáo huấn về chữ tâm, chữ đức và cái được gọi là “lương y – y đức” chính vì thế ông Hiền đã quyết tâm vượt lên số phận, vượt mọi gian nan để làm việc thiện cho người cho đời.
Không chỉ học được những bài thuốc mà bố và ông nội truyền dạy, ông Hiền còn đi học thêm chuyên môn về y dược, châm cứu, bấm huyệt... Nhờ sự chỉ dạy tận tình của các thầy lại thêm sự nỗ lực của bản thân. Rời những lớp học ông về với quê hương Trở về quê hương, ông mở phòng khám đông y chữa bệnh cho nhân dân quanh vùng. Tài năng và y đức của ông nhanh chóng được khẳng định. Tiếng lành đồn xa, người bệnh khắp mọi miền Tổ quốc tìm về với ông ngày một đông. Tiếp nối y đức của ông nội và cha, để giúp đỡ bệnh nhân nghèo được nhiều hơn, ông Hiền đã vận động gia đình, bè bạn quyên góp, vay mượn nhiều nơi xây dựng nên cơ sở khám, chữa bệnh khang trang ngay trên mảnh đất của gia đình. Nơi đây, nhiều số phận đã được tái sinh.
Không chỉ đem lại niềm vui, sức khỏe cho người bệnh bằng những bài thuốc bí truyền mà ông còn giúp đỡ người bệnh bằng việc khám chữa miễn phí hoặc lấy giá cực rẻ. Với ông việc xây dựng phòng khám này là để khám, chữa bệnh, cứu người là để trả ơn cuộc đời, đâu nghĩ đến chuyện giàu sang. Tiền bạc thu được từ việc khám, chữa bệnh chỉ đủ trang trải chi phí hằng ngày, trả lương cho nhân viên. Phần lớn kinh phí hỗ trợ bệnh nhân nghèo đều là tiền do bệnh nhân ủng hộ. Những phần quà cảm ơn, những kinh phí của bệnh nhân được ông chữa trị lành bệnh đã được ông đem vào quỹ làm từ thiện. Với ông Làm nghề y phải có cái tâm, cái đức, bởi cuối cùng, cái còn lại ở đời là tâm, là đức.
Ngoài việc làm từ thiện, khám bệnh cứu người, phòng khám của lương y Nguyễn Văn Hiền còn tạo công ăn việc làm cho gần 20 lao động người địa phương. Hiện tại, ông đang đỡ đầu cho 6 em đi học đông y ở Trường Y học cổ truyền Lê Hữu Trác, với mức hỗ trợ một triệu đồng/người/tháng. Ngoài ra, ông còn là người đi đầu trong hoạt động đóng góp ủng hộ làm đường giao thông nông thôn, ủng hộ các đoàn thể xã hội của thôn, của xã. Ông nói: “Tôi đã sống cuộc sống đói nghèo, nên thấu hiểu và chia sẻ với những người kém may mắn. Chỉ tiếc, sức tôi có hạn”.
Người thầy thuốc có tấm lòng nhân ái này chỉ ao ước một điều: Được sống lâu, sống khỏe để giúp được nhiều bệnh nhân nghèo hơn nữa. Ông nói: “Không biết tôi còn sống được bao lâu, nhưng sống được ngày nào, sẽ cố gắng xoa dịu nỗi đau cho bất cứ ai đến với tôi”. Hiện nay, ông đang dốc lòng truyền nghề cho nhân viên của phòng khám. Dường như ông đang chạy đua với thời gian…
Nói về lương y Nguyễn Văn Hiền, ông Phan Thế Hưng, Chủ tịch UBND xã Nghi Trung cho tôi biết: “Thầy Hiền là người có tấm lòng vàng, là nhân vật có một không hai ở xã Nghi Trung này. Thầy là người luôn dẫn đầu trong công tác từ thiện, nhân đạo; luôn có nhiều ý tưởng, nhiều chương trình về xây dựng quỹ khuyến học, hỗ trợ trẻ em nghèo vượt khó. Là một cơ sở y tế tư nhân, lượng bệnh nhân đến khám, chữa bệnh lưu trú đông nhưng phòng khám của thầy Hiền luôn chấp hành tốt an ninh trật tự, vệ sinh môi trường. Hiện nay, cơ sở khám, chữa bệnh của lương y Hiền đang xin phép mở rộng để phục vụ tốt hơn nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân. UBND xã luôn ủng hộ và tạo mọi điều kiện cho thầy Hiền”.
Trong lúc y đức đang có chiều hướng xuống cấp thì lương y, cựu chiến binh Nguyễn Văn Hiền vẫn ngày đêm miệt mài chữa bệnh, cứu người mà không màng danh lợi - như dòng sông chở nặng phù sa bồi đắp cho những mảnh đời bất hạnh. Việc làm nhân nghĩa của ông làm sáng thêm phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ trong lòng nhân dân.